Tổng quan về ngành trắc địa bản đồ

Tổng quan về ngành trắc địa bản đồ

Trắc địa bản đồ là gì? Đây là mối quan tâm đầu tiên của hầu hết những người bắt đầu tìm hiểu về lĩnh vực này, THC sẽ cung cấp cho các bạn những thông tin về định nghĩa, các khái niệm cơ bản cũng như lịch sử hình thành đầy hấp dẫn của ngành trắc địa bản đồ.

MỤC LỤC:

1. Trắc địa bản đồ là gì?

2. Lịch sử phát triển ngành Trắc địa bản đồ

    2.1 Sự phát triển ngành Trắc địa trên thế giới

    2.2 Sự phát triển ngành Trắc địa ở Việt Nam

3. Những nội dung và chuyên ngành của công tác Trắc địa

    3.1 Nội dung của công tác Trắc địa

    3.2 Các chuyên ngành của công tác Trắc địa

1. Trắc địa bản đồ là gì?

Trắc địa hay còn được gọi là trắc đạc, đo đạc là việc thực hiện đo đạc và xử lý thông tin để xác định được vị trí tương đối của các điểm bề mặt trái đất. Công việc này được làm với mục đích mô tả chúng lên trên mặt phẳng – đó gọi là bản đồ.

Trắc địa là một trong những ngành nghề có lịch sử lâu đời nhất và đóng một vai trò quan trọng trong nhiều ngành kỹ thuật, nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, hiểu được cơ bản định nghĩa trắc địa là gì là nhu cầu không chỉ của những người trong ngành xây dựng.

2. Lịch sử phát triển ngành Trắc địa bản đồ

2.1. Sự phát triển ngành Trắc địa trên thế giới

Cách đây khoảng 3.000 năm trước Công nguyên, người Ai Cập thường phải “phân chia đất đai” giữa các bộ tộc sau các trận lũ của sông Nin. Thuật ngữ “trắc địa” tức “phân chia đất đai” được ra đời từ đấy.

Sau Ai Cập, Cổ Hi Lạp có nền văn hoá phát triển mạnh. Khoảng 300 năm trước Công nguyên, nhà thiên văn học Eratosten đã cho rằng quả đất có dạng hình cầu, và đo được độ dài cung kinh tuyến.

Thế kỷ XIII, Trung quốc đã tìm ra la bàn và ứng dụng la bàn vào việc thành lập bản đồ hàng hải bằng phương pháp sao hoả tâm.

Thế kỷ XVI, nhà bản đồ học Mecartor đã tìm ra phép chiếu phương vị ngang đồng góc để vẽ bản đồ.

Thế kỷ XVII, nhà bác học Vecnie đã phát minh ra du xích.

Thế kỷ XVIII, nhà bác học Lambert đo được độ dài kinh tuyến qua Pari và đặt ra đơn vị độ dài đo là mét.

Thế kỷ XIX, nhà toán học Gauss tìm ra phương pháp chiếu đồ mới.

Trải qua nhiều thời đại, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và nền sản xuất xã hội, khoa học trắc địa ngày càng phát triển. Những phát minh kính viễn vọng, logarit, tam giác lượng mặt cầu... đã tạo điều kiện vững chắc cho sự phát triển của khoa học trắc địa.

Trong những thập kỉ gần đây, những thành tựu mới về khoa học kĩ thuật đã làm cho khoa học trắc địa có bước phát triển mạnh: kỹ thuật thăm dò từ xa (viễn thám) đã cho phép thành lập bản đồ từ ảnh máy bay, ảnh vệ tinh. Nhiều nước công nghiệp phát triển đã chế tạo ra nhiều máy trắc địa có kích cỡ nhỏ, nhiều tính năng, có độ chính xác cao, sử dụng máy tính điện tử vào việc giải các bài toán trắc địa có khối lượng lớn v.v… là những thành tựu mới nhất của khoa học áp dụng trong trắc địa.

2.2 Sự phát triển ngành Trắc địa ở Việt Nam

Tại Việt Nam, ngành trắc địa đã phát triển từ lâu. Nhân dân ta từ thuở xưa đã áp dụng kiến thức trắc địa vào sản xuất, quốc phòng. Việc xây dựng các thành luỹ cổ như thành Cổ Loa, kinh đô Hoa Lư, việc mở mang đường sá, sông ngòi qua các thời đại đã chứng minh vể hiểu biết trắc địa của nhân dân ta. Đặc biệt dưới thời nhà Lê, năm 1467, vua Lê Thánh Tôn đã cho người đi khảo sát núi sông để lập bản đồ nước Đại Việt thời Hồng Đức. “Đại Nam Nhất thống Toàn đồ” do vua Minh Mạng nhà Nguyễn công bố năm 1834 là tấm bản đồ đầu tiên thể hiện tương đối chi tiết, đầy đủ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta tại thời điểm đó.

Đầu thế kỷ 20, sau khi thôn tính và lập nền đô hộ, Pháp đã tiến hành công tác đo vẽ cho toàn bộ Đông Dương nhằm mục đích khai thác tối đa vùng đất này. Việc đo đạc được tiến hành có tổ chức, áp dụng các phương pháp đo khoa học và các máy móc có chất lượng cao. Những bản đồ, hồ sơ còn lưu trữ nói lên điều đó. Hiện nay những bản đồ, những số liệu đo đạc từ trước năm 1945 vẫn còn được dùng trong một số ngành.

Trong thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954) công tác trắc địa chủ yếu phục vụ cho quân sự như: trắc địa pháo binh, công binh, trinh sát … Sau cuộc kháng chiến thành công, nhà nước Việt Nam ra đời năm 1959 đánh dấu một bước trưởng thành của ngành trắc địa Việt Nam.

Đội ngũ người làm công tác đo đạc và bản đồ nhà nước là cơ quan có chức năng tổ chức việc đo vẽ bản đồ toàn quốc các tỷ lệ, ban hành Quy phạm trắc địa và thống nhất công tác trắc địa trong cả nước.

3. Những nội dung và chuyên ngành của công tác Trắc địa

3.1 Nội dung của công tác Trắc địa

  • Lựa chọn phương pháp khảo sát, thiết bị, địa điểm.
  • Thu thập dữ liệu: Làm các phép đo và ghi dữ liệu.
  • Xử lý dữ liệu: Thực hiện các tính toán dựa trên các dữ liệu ghi lại để xác định vị trí, diện tích.
  • Lập bản đồ: Vẽ đo hoặc giá trị tính toán để tạo ra một bản đồ, plat, hoặc biểu đồ, hoặc mô tả các dữ liệu ở dạng số hoặc máy tính.
  • Stakeout (Layout): Triển khai bản vẽ thiết kế ra thực địa phục vụ các công tác thi công và xây dựng các công trình cũng như các công tác giám sát việc thi công. Các dụng cụ đo chủ yếu là máy thủy bình, máy kinh vĩ, máy toàn đạc điện tử.

3.2 Các chuyên ngành của công tác Trắc địa

  • Trắc địa bản đồ: đo vẽ các loại bản đồ phục vụ cho dân sự như: bản đồ địa chính, bản đồ địa hình.
  • Trắc địa công trình: khảo sát thiết kế công trình, đo đạc triển khai vị trí công trình, giám sát thi công, quan trắc biến dạng công trình.
  • Trắc địa mỏ công trình.
  • Trắc địa cao cấp: đo đạc trên quy mô toàn cầu.
  • Trắc địa viễn thám: đo vẽ bản đồ từ ảnh hàng không, từ các thiết bị như máy ảnh cùng với các thiết bị hỗ trợ như máy bay.
  • Trắc địa vệ tinh: xác định vị trí địa vật và đo vẽ địa hình bằng vệ tinh.
  • Hệ thông tin địa lý (GIS): về phần mềm và cơ sở dữ liệu địa lý.

Công ty TNHH TVXD và Trắc địa Bản đồ THC  luôn tự hào là một trong những đơn vị cung cấp dịch vụ đo đạc công trình uy tín và chất lượng với đội ngũ kỹ sư trắc địa giàu chuyên môn, lành nghề cùng với hệ thống phần mềm đo đạc tiên tiến, hệ thống máy móc đo đạc, xử lý số liệu sau đo đạc công trình chính xác và nhanh chóng nhất.